Tổng hợp bài viết chuyên gia GIBC

Góc nhìn chuyên gia

Thu hút FDI: Tiếp tục trải thảm đỏ với bộ lọc mới

18-12-2019
Các vấn đề khác dưới góc nhìn của Ông Phan Hữu Thắng



Năm 2019, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có một số xu hướng chuyển dịch mới đáng chú ý.

Xu hướng chuyển dịch mới

Về hình thức đầu tư, mua bán và sáp nhập (M&A) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và tốc độ tăng nhanh. Về đối tác, vốn Trung Quốc, Hồng Kông tăng mạnh, trong khi Nhật Bản nhiều khả năng không nằm trong top 3 quốc gia đầu tư lớn nhất như mọi năm. Về lĩnh vực, mặc dù vốn vẫn tập trung vào công nghiệp chế biến chế tạo, song đang tăng nhanh hơn ở dịch vụ, hạ tầng.

 Số liệu thống kê về kết quả thu hút đầu tư nước ngoài 11 tháng đầu năm 2019 đã phản ánh được một phần thực tế đó. Cụ thể, tổng vốn đầu tư trực tiếp đạt mức 20,5 tỷ USD, vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký điều chỉnh đều giảm so với cùng kỳ 2018; trong khi đó vốn đầu tư thông qua kênh M&A đạt 12,24 tỷ USD và tăng tới 47,1% so với cùng kỳ.

Việc nhà đầu tư nước ngoài ngày càng ưa chuộng hình thức M&A là điều khá dễ hiểu. Bởi lẽ đầu tư vào Việt Nam thông qua hình thức này nhanh hơn, rút ngắn được thời gian hơn so với việc trực tiếp thành lập các pháp nhân mới để thực hiện dự án mới. Khi đầu tư trực tiếp, đối với các dự án quy mô từ vài chục triệu USD trở lên hay có quy mô sử dụng đất từ vài chục ha trở lên thường mất ít nhất một vài năm để tiến hành làm thủ tục đầu tư. Bên cạnh đó, chi phí để đầu tư trực tiếp có nhiều khâu khó thống kê, trong khi đầu tư qua M&A thường là một gói kinh phí rõ ràng hơn, đại diện chủ đầu tư khi tiến hành M&A cũng dễ dàng báo cáo với Hội đồng cổ đông, hay cấp trên có thẩm quyền phê duyệt quyết định về các khoản chi phí đối với thương vụ.

Về đối tác nước ngoài, tính đến 20/11/2019, các nhà đầu tư đến từ Hồng Kông (Trung Quốc) đứng đầu với số vốn đăng ký trên 6,8 tỷ USD; tiếp theo là Hàn Quốc 5,7 tỷ USD; Singapore 4,4 tỷ USD. Điều đáng lưu ý ở đây là số vốn đăng ký đầu tư từ Trung Quốc và Hồng Kông tăng đột biến so với những năm trước, và lần đầu tiên Hồng Kông đứng ở vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong 1 năm. Với các đột biến đó, nên theo thống kê năm 2019, đầu tư của đối tác truyền thống là Nhật Bản chỉ đứng thứ 5.

Về lĩnh vực đầu tư vẫn đang theo đúng xu hướng trong nhiều năm qua. Theo đó, vốn chảy mạnh nhất vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, chiếm gần 70%. Song ở đây có điều đáng tiếc là các lĩnh vực có tiềm năng mà Việt Nam đang cần và khuyến khích đầu tư như nông nghiệp công nghệ cao còn chưa thu hút được nhiều vốn ngoại.

Cần chính sách “nắn dòng”?

Khi so sánh 2 con số 20,5 tỷ USD đầu tư trực tiếp và 12,24 tỷ USD qua hình thức M&A, có thể thấy vốn đầu tư trực tiếp vẫn giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên sự tăng tốc mạnh mẽ của hình thức M&A cũng đặt ra vấn đề, liệu có cần thiết kế chính sách “nắn dòng” vốn ngoại hay để thị trường và nhà đầu tư tự định đoạt. Bởi lẽ đến nay vẫn chưa có đánh giá chính thức nào so sánh được ưu điểm và hạn chế giữa 2 hình thức này. Vì vậy chưa thể đánh giá chính xác lợi ích cụ thể mà mỗi hình thức mang lại cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Thực tế đó cho thấy, cần có nghiên cứu sâu về vấn đề này để bổ sung vào   định hướng chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, có nên xác định trước một tỷ lệ tương đối trong từng giai đoạn (ví dụ 5 năm) sẽ thu hút bao nhiêu theo kênh trực tiếp và bao nhiêu theo kênh M&A? Những ngành nghề, lĩnh vực nào cần và không cần khuyến khích đầu tư theo kênh M&A (chẳng hạn với ngành sản xuất bia, Việt Nam có thị trường, có năng lực để làm thì không nên khuyến khích)…

Để đánh giá toàn diện kết quả thu hút đầu tư nước ngoài năm 2019 qua kênh góp vốn, mua cổ phần, cơ quan quản lý nhà nước cần xem xét cụ thể các thương vụ M&A lớn, điển hình trong năm vừa qua để thấy rõ mặt được và chưa được, từ đó rút ra bài học về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài giai đoạn tới.

Về vốn đầu tư tăng nhanh từ Trung Quốc và Hồng Kông, đã có các nghiên cứu xác định là do ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, và tình hình bất ổn hiện nay tại Hồng Kông. Bên cạnh đó việc sàng lọc dự án, định hướng thu hút các đối tác nước ngoài của Việt Nam cũng chưa được xác định rõ và thống nhất trong cả hệ thống về quản lý thu hút đầu tư nước ngoài. Cũng cần đặt ra những lo ngại nhất định trước sự dịch chuyển này vì nhiều nguyên nhân, như chất lượng dự án, nguồn gốc nhà đầu tư nào?…

Không bó tay để chịu tác động xấu

Về kết quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2019, có thể nhận định chung là đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn tiếp tục thành công, với số vốn thực hiện năm sau cao hơn năm trước. Xếp hạng tín nhiệm môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam vẫn tiếp tục được các tổ chức xếp hạng quốc tế có uy tín đánh giá cao.

Tuy vậy trong các thành công cũng không tránh khỏi những tồn tại của quá trình phát triển, mà việc đáng lưu ý nhất là quản lý đầu tư nước ngoài trên địa bàn. Đơn cử dự án bất động sản Our City tại Hải Phòng đã để xảy ra việc tổ chức đánh bạc có quy mô lớn với yếu tố nước ngoài vài trăm người. Vụ việc này cho thấy rất cần rút ra các bài học kinh nghiệm để không lặp lại những sự việc tương tự tại tất cả các địa phương trên cả nước. Và không chỉ trong công tác quản lý xuất nhập cảnh của người nước ngoài, mà phải rút kinh nghiệm ở tất cả các lĩnh vực cụ thể khác liên quan đến đầu tư nước ngoài như việc dự án đã được cấp phép nhưng nhiều năm vẫn không triển khai, nợ thuế, môi trường, sử dụng lao động người Việt  và người nước ngoài trong doanh nghiệp, sử dụng đất…

Các xu hướng chuyển dịch trong năm 2019 của dòng vốn đầu tư nước ngoài là nhất thời, ngắn hạn, hay sẽ trở thành xu hướng lâu dài, còn phụ thuộc vào 2 yếu tố chính. Thứ nhất, bối cảnh và diễn biến của tình hình thương mại và đầu tư quốc tế. Thứ hai, sự chủ động trong định hướng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong ngắn hạn cũng như dài hạn trước bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước.

Bối cảnh quốc tế nói chung sẽ tác động rất lớn đến tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của mọi quốc gia, nhưng không phải các quốc gia đều bó tay để chịu tác động xấu. Trước đây Việt Nam còn bị bao vây cấm vận, còn trải qua khủng hoảng tài chính khu vực... nhưng chúng ta đã biết cách chủ động vượt qua. Đến nay, trước những biến động ở bên ngoài, thì việc đóng và mở cửa cho ai, lựa chọn dự án nào là sự chủ động và quyền của chính chúng ta.

Vì vậy, đây chính là thời điểm cài đặt một bộ lọc nhà đầu tư nước ngoài để có thể chọn được những nhà đầu tư thật sự có năng lực, thân thiện với môi trường, luôn tuân thủ luật pháp quốc tế về đầu tư. Sự chủ động này của Việt Nam sẽ quyết định xu hướng của dòng vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới, mang lại hiệu quả cao nhất cho Việt Nam và cho các nhà đầu tư chân chính tại Việt Nam.

Bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều khó khăn, thách thức mới, ngày 20/8/2019 vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/201 về định hướng hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Đây là nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần được tổ chức thực hiện nghiêm túc từ trung ương đến địa phương, như vậy sẽ thúc đẩy hoạt động thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn tới đúng hướng, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, bền vững hơn trên mọi góc độ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hóa, đối ngoại… và chắc chắn sẽ nhận được sự đồng thuận, đánh giá cao của bạn bè quốc tế, đặc biệt là của các nhà đầu tư chân chính.

TS. Phan Hữu Thắng - nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài